Lịch sử hoạt động M4_Sherman

Mẫu Sherman đầu tiên của lực lượng Mỹ trong cuộc đổ bộ lên Sicilia

Chuyển giao cho quân đội các nước khác

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, gần 19.247 chiếc Sherman đã được chuyển giao cho lục quân Mỹ và khoảng 1.114 chiếc được chuyển cho lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ.[1] Tuy nhiên ngoài hai con số trên, lực lượng Mỹ còn chuyển giao cho quân Anh 17.184 chiếc, 4.102 chiếc cho Liên Xô[2], và có thể 812 chiếc được chuyển cho Trung Quốc.[3] Số tăng được chuyển đi theo như hiệp ước trao đổi giữa khối Đồng Minh chống phát xít.

Lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ sử dụng phiên bản Sherman M4A2 (sử dụng động cơ diesel) và M4A3 (sử dụng động cơ gas) tại mặt trận Thái Bình Dương. Tuy nhiên ngay sau đó bộ quốc phòng Mỹ không cho phép lực lượng quân đội trong nước sử dụng các phiên bản tăng có động cơ đốt bằng nguyên liệu diesel, mà chỉ được dùng trong thử nghiệm và tập trận. Sau đó M4A2 và M4A4 trở thành hai loại tăng được xuất qua các nước khác nhiều nhất thông qua chương trình Lend-Lease.

Phiên bản M4A4 Sherman-được xuất qua các nước Đồng Minh nhiều nhất trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai

Tham chiến với xe tăng Đức

Sherman được thiết kế ra chủ yếu nhằm tiếp tế cho lực lượng quân Anh tại chiến trường Bắc Phi, tình hình càng trở nên nguy cấp khi Rommel đã chiếm được Tobruk, kênh đào SuezAi Cập.Bộ quốc phòng Mỹ quyết định tập hợp toàn bộ số Sherman lại với nhau và điều vào sư đoàn thiết giáp số hai của Patton nhằm đánh bật quân Đức ra khỏi Ai Cập.Nhưng việc chuyển giao Sherman từ Anh qua châu Phi và có khoảng 300 chiếc đến Bắc Phi vào tháng 9/1942.

Một chiếc Sherman M4A3R3 của lực lượng thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đang sử dụng nòng phóng lửa trong trận Iwo Jima

Phiên bản M4A1[4] lần đầu tiên tham chiến trong trận El Alamein lần thứ hai vào tháng 10/1942 cùng với sư đoàn quân số 8 của lực lượng Anh.Chiếc Sherman đầu tiên của lực lượng Mỹ là phiên bản M4A1 được thấy tham chiến lần đầu tiên trong chiến dịch Torch. Khi đối đầu với lực lượng thiết giáp Đức, Sherman hoàn toàn có khả năng chiến thắng các loại xe tăng hạng trung của Đức như Panzer III với pháo chính 50 mm L/60, Panzer IV đời đầu với pháo chính nòng ngắn 75 mm L/24. Số M4 và M4A1 được cử đến mặt trận Bắc Phi nhằm thay thế kiểu tăng hiện tại của các sư đoàn lục quân Mỹ là M3 Lee. M4 và M4A1 là hai kiểu Sherman chính mà quân đội Mỹ sử dụng trong gần như suốt cuộc chiến. Đến năm 1944, bộ quốc phòng Mỹ chính thức thay thế M4 và M4A1 bằng kiểu Sherman mới là M4A3 với động cơ có công suất 500 mã lực(370 kW). Một vài chiếc được tận dụng đến tận cuối cuộc chiến.

Khi đối đầu với đối thủ thiết giáp mới từ Đức là Tiger I, Sherman tỏ ra thua kém hơn hẳn về lớp giáp bọc và vũ khí chính. Pháo chính 88 mm L/56 có sức xuyên giáp mạnh hơn Sherman khá nhiều, lớp giáp trước tháp pháo dày đến gần 120 mm của nó không thể bị xuyên thủng bởi pháo chính 75 mm của Sherman. Tuy nhiên, nếu có kíp chiến đấu dày dặn kinh nghiệm tận dụng được độ linh động của xe, Sherman vẫn có thể hạ gục được Tiger-I (bằng cách bắn vào hông xe) nhưng với một mức thiệt hại cao. Về đối thủ Panzer IV, pháo chính của Panzer-IV cũng đã được nâng cấp thành pháo 75 mm L/48, lớp giáp bọc dày 80 mm của nó cũng khiến cho pháo chính của Sherman trở nên kém hiệu quả. Sau khi Đức tung ra Tiger IPanther, pháo chính 75 mm của Sherman càng trở nên "lạc hậu" hơn nữa.

Vào tháng 7/1944, phiên bản Sherman mới với pháo chính 76 mm L/55 chính là M4A1, tiếp sau đó là M4A3. Từ sau năm 1944 đến cuối cuộc chiến, hơn nửa số Sherman mà Mỹ huy động tham chiến đều có pháo chính 76 mm. Chiếc Sherman mang pháo 76 mm đầu tiên tham chiến chính là chiếc Sherman M4A3E8(76)W, nó hoạt động vào tháng 12/1944.

Ở góc đối diện, pháo chính 76 mm L/55 khi sử dụng đạn M79 AP có thể bắn thủng giáp trước của Tiger I ở cự ly 700 - 1.000 mét, cho phép M4 Sherman bớt thất thế trước các loại Tiger IPanther của Đức. Nếu sử dụng loại đạn HVAP thì Sherman có thể hạ Tiger I ở cự ly tới 1.500 mét. Tuy nhiên, loại đạn HVAP này chỉ được sản xuất từ tháng 8 năm 1944, và loại đạn này rất đắt nên chỉ được sản xuất một lượng nhỏ để trang bị cho các đơn vị tinh nhuệ, và ngay cả các đơn vị này cũng chỉ được trang bị vài viên HVAP cho mỗi xe. Còn nếu chỉ sử dụng đạn xuyên giáp thông thường như AP, APCBC thì kiểu pháo 76 mm này vẫn chỉ có thể bắn thủng được giáp trước của Tiger I ở cự ly vài trăm mét trở lại, nhưng với một loại xe tăng hạng trung thì khả năng này được coi là tạm đủ.

Lính Mỹ được yểm trợ bởi M4 Sherman trong chiến dịch Bougainville.Số lính này đang được huy đông để quét sạch lực lượng Nhật ra khỏi cánh rừng-lính Nhật đã tìm cách phá vỡ phòng tuyến của quân Mỹ vào đêm hôm trước;tháng 3/1944

M4 là một xe tăng dễ sử dụng bởi nó dễ dàng sửa chữa và điều khiển, không gian bên trong cũng khá rộng rãi. Tuy nhiên, trên chiến trường, xe tăng M-4 Sherman lại là một "bẫy tử thần" đối với kíp lái. Trong khi hầu hết mọi xe tăng trong Thế chiến 2 chạy bằng dầu diesel, loại nhiên liệu an toàn và ít gây cháy, tăng Sherman lại sử dụng động cơ xăng công suất 400 mã lực. Khi kết hợp với đạn dược mang theo bên trong, thùng xăng lớn này có thể biến cỗ xe tăng thành một ngọn đuốc khổng lồ chỉ sau một lần bị trúng đạn pháo địch.

M4 Sherman càng trở nên mỏng manh hơn khi đối mặt với xe tăng Tiger I trang bị pháo 88mm vượt trội của Đức. Nếu Sherman trúng một phát đạn 88mm, kíp lái 5 người bên trong chỉ có vài giây để thoát ra ngoài trước khi bị thiêu sống. Do đó, tăng Sherman còn có biệt danh là Ronson (bật lửa), bởi nó dễ dàng bốc cháy ngay lần đầu trúng đạn. Lính Đức thì gọi nó là “Tommy Cooker”, nghĩa là “nồi nấu lính Mỹ”.

Gus Stavros, một cựu binh từng chứng kiến cuộc đọ sức giữa tăng Sherman và tăng Tiger bên ngoài thị trấn Nennig, Đức, cho biết: "Tôi đã chứng kiến cảnh những người lính nhảy ra khỏi cỗ xe tăng đang bốc cháy. Tăng Tiger của Đức trang bị pháo 88 mm dễ dàng thổi tung tăng Sherman thành từng mảnh cho đến khi không còn gì sót lại ngoài cột khói và lửa".

Mặt trận Xô - Đức

Trong Thế chiến 2, Mỹ đã viện trợ cho Liên Xô khoảng 4.100 chiếc M4 Sherman gồm nhiều phiên bản, những chiếc Sherman cũng được Liên Xô sử dụng để chiến đấu với xe tăng Đức.

Theo nhận xét của lính tăng Liên Xô thì khi so với loại xe cùng hạng của Liên Xô là T-34, M4 Sherman có những ưu và nhược điểm sau:

  • Ưu điểm:
    • M4 có khoang lái rộng rãi hơn, nội thất của xe được chăm chút kỹ (ghế được bọc da và có giảm xóc, các bộ phận được sơn màu bắt mắt). Điện đài của M4 có chất lượng tốt hơn so với T-34.
    • Xích xe được bọc cao su nên di chuyển êm hơn, ít ồn hơn (ban đầu T-34 cũng được bọc cao su ở xích, nhưng qua thử nghiệm thì thấy lớp cao su này không bền và gây nhiều phiền toái nên bị bỏ đi).
    • M4 các phiên bản từ năm 1944 có thùng chứa đạn ướt mà T-34 không có.
  • Nhược điểm:
    • M4 kém cơ động hơn vì chỉ có động cơ mạnh 400 mã lực, trong khi T-34 có động cơ 500 mã lực. M4 có thể chạy với tốc độ tối đa là 38,5 km/h, tầm hoạt động khoảng 193 km, trong khi các chỉ số tương ứng của T-34/85 là 50 km/h và 360 km.
    • M4 dùng động cơ xăng, trong khi T-34 có động cơ diezel. Do đó động cơ T-34 dễ sửa chữa và ít kén nhiên liệu hơn, khi bị bắn trúng thì cũng khó bị cháy nổ hơn.
    • M4 có thân xe cao nên dễ trúng đạn hơn, xe cũng dễ lật hơn khi di chuyển trên đường đồi núi.
    • Xích xe bọc cao su trở nên phiền toái khi trời nóng hoặc bị lửa táp vào, bởi cao su sẽ chảy ra, bít kín các mắt xích khiến xe kẹt cứng không di chuyển được (vấn đề này Liên Xô đã nhận ra từ sớm nên họ không bọc cao su cho xích của T-34). Xích xe của M4 cũng không rộng như T-34 nên xe dễ bị sa lầy hơn khi đi trên tuyết hoặc bùn nhão.
    • Hỏa lực của M4 (mang pháo 75mm hoặc 76mm) yếu hơn T-34 (mang pháo 85mm). Khẩu D-5T 85mm L/52 của T-34 có động năng đạn ~2,92 MJ, cao hơn đáng kể so với 2,19 MJ của pháo M1A2 cỡ 76mm L/55 trên M4 Sherman.
    • Giáp trước thân xe của M4 Sherman và T-34 tương đương nhau, nhưng giáp trước tháp pháo và giáp hông của T-34 thì dày hơn và được làm vát nghiêng, trong khi vỏ giáp các bộ phận này của M4 thì mỏng hơn và đặt thẳng đứng nên khả năng bảo vệ kém hơn.
    • Ở khí hậu lạnh khắc nghiệt (dưới âm 40 độ C), M4 không thể hoạt động được do nhiên liệu bị đóng băng. T-34 thì không gặp vấn đề gì vì được trang bị hệ thống làm ấm nhiên liệu.

Các kỹ sư Liên Xô nhận thấy đạn nổ mạnh (HE) cho pháo 75mm của M4 có xu hướng phát nổ bất ngờ. Lãnh đạo Liên Xô là Stalin phàn nàn với Tổng thống Mỹ Roosevelt trong một bức thư vào năm 1942: "Tôi cho rằng nhiệm vụ của tôi là thông báo cho ngài rằng, theo các chuyên gia của chúng tôi ở mặt trận, xe tăng của Mỹ dễ dàng bị đốt cháy bởi những viên đạn chống tăng trúng vào phía sau hoặc hai bên, đó là do loại xăng mà các xe tăng của Mỹ sử dụng đã tạo ra một lớp khí ga dày bên trong xe tăng, tạo điều kiện cho các đám cháy (khi xe trúng đạn)."[5]

Do có nhiều khuyết điểm khi so với T-34 nên M4 Sherman không được Hồng quân ưa chuộng. Phần lớn M4 Sherman được sử dụng để tác chiến tại các mặt trận thứ yếu ở phía Nam như Caucasus, vùng Các-pát, hiếm khi Liên Xô huy động M4 tác chiến ở khu vực trung tâm mặt trận và tham gia các mũi đột phá quan trọng.

Mặt trận châu Á-Thái Bình Dương

Một chiếc Sherman bị kẹt tại bãi biển Normandy

Ở mặt trận châu Âu - nơi phải tham chiến với Đức Quốc xã, Mỹ bắt buộc phải huy động lực lượng Sherman với chất lượng tốt nhất, ngoài mặt trận châu Âu, mặt trận Thái Bình Dương cũng là một trong những nơi tham chiến quan trọng, tuy nhiên việc sử dụng tăng ở đây là không phù hợp nên chỉ có một số lượng nhỏ Sherman được điều đến mặt trận Thái Bình Dương (nhằm tiếp tế cho cả lực lượng Đồng Minh tại đây). Trong số hơn 16 sư đoàn thiết giáp và 70 tiểu đoàn tăng độc lập, chỉ có khoảng 3 sư đoàn tăng được gửi đến hoạt động tại Thái Bình Dương.[6]

Giống như quân Mỹ, giới quân sự Nhật chỉ điều duy nhất mỗi sư đoàn thiết giáp số hai hoạt động trong toàn bộ cuộc chiến.[7] Vì địa hình ở các đảo châu Á - Thái Bình Dương chủ yếu là rừng già, cao nguyên, núi cao hiểm trở với khí hậu ẩm ướt và chỉ thích hợp để bộ binh chiến đấu với nhau nên việc sử dụng xe tăng tại đây rất khó khăn. Xe tăng Sherman được sử dụng như các loại xe vận chuyển bộ binh, diễn tập và yểm trợ bộ binh trong một số chiến dịch tấn công cơ động có lô-cốt.[8]

Xe tăng Sherman trong trận Okinawa

Trong những giai đoạn đầu của cuộc chiến, đặc biệt là trong Chiến dịch Guadalcanal, quân Mỹ thường sử dụng tăng hạng nhẹ M2A4 để đối đầu với xe tăng hạng nhẹ Ha-Go Kiểu 95 của quân Nhật; cả hai đều được trang bị pháo 37 mm, nhưng M2 (sản xuất năm 1940) vẫn mạnh hơn 95 Ha-Go do sản xuất sau đến 5 năm.[9] Đến năm 1943, quân Nhật vẫn sử dụng hai kiểu tăng hạng nhẹ chủ yếu của họ là Ha-Go và Chi-Ha Kiểu 97, trong khi đó quân Mỹ đã thay thế M2A4 bằng M4 (có pháo chính 75 mm).[10] Lực lượng Trung Quốc tại Ấn Độ nhận được khoảng 100 chiếc M4 và dùng chúng trong những chiến dịch phản công rất có hiệu quả vào những năm 1943-1944.

Từ sau năm 1943, lực lượng đế quốc Nhật Bản bắt đầu thay thế các loại tăng hạng nhẹ của họ bằng loại tăng hạng trung mới Chi-Nu Kiểu 3 (với pháo chính 75 mm), loại tăng này được thiết kế ra nhằm bảo vệ các công trình quân sự trên đảo, yểm trợ bộ binh và phòng thủ các hòn đảo gần Nhật. Lực lượng Đồng Minh cũng đáp trả lại bằng cách đưa M4 vào chiến trường, pháo chính của M4 sử dụng đạn trái phá (HE), ống ngắm quang học có tầm bắn xa và chính xác hơn so với xe Nhật. Với các tính năng trên M4 có thể dễ dàng hạ gục được các loại xe tăng hạng trung và nhẹ của Nhật. Mặc dù các loại pháo tự hành (chống tăng) cũng được đưa vào nhằm hủy diệt các lô-cốt và boong-ke địch, nhưng M4 vẫn được trang bị thêm nòng phun lửa nhằm tiêu diệt lính Nhật ngụy trang trong rừng già và hang động.[11][12]

Hoạt động sau thế chiến II

Mẫu Sherman cuối cùng M4A3E8, nó đang bắn từ bệ đá với vai trò như một lựu pháo

Sau thế chiến II, quân Mỹ vẫn sử dụng tăng Sherman phiên bản M4A3E8 Easy Eight(được trang bị pháo chính 76 mm hoặc 105 mm). Số Sherman còn lại sau thế chiến II chủ yếu được sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên.Mặc dù không còn đảm nhận vai trò là loại tăng chính trong các cuộc chiến, nhưng Sherman vẫn được phân vào các sư đoàn hoặc tiểu đoàn tăng thiết giáp cùng với tăng hạng nặng M26 Pershing và tăng hạng trung M46 Patton.

Trong chiến tranh Triều Tiên, M4A3E8 là thế hệ tăng M4 duy nhất có thể loại tăng T-34/85 của Triều Tiên ra khỏi vòng chiến. Cả M4 và T-34 đều có thể hạ gục đối thủ chỉ trong phát bắn trúng đầu tiên, tuy nhiên M4 có lợi thế ở các kíp lái Mỹ được đào tạo kỹ hơn so với Triều Tiên và dùng điện đài tốt hơn, trong khi T-34 có giáp hông dày hơn, thân xe thấp hơn nên khó trúng đạn hơn và có khả năng chạy đường trường tốt hơn.

Trong những năm 1950, M4 dần trở nên lạc hậu và bị thay thế toàn bộ bởi dòng tăng M48 Patton. Mỹ đã tìm cách chuyển toàn bộ số Sherman cho quân Đồng Minh và các nước khác, M4 được sử dụng rất rộng rãi sau thế chiến bởi khá nhiều lực lượng. Đến khoảng đầu thập niên 1980 thì toàn bộ M4 Sherman ở các nước đều đã nghỉ hưu hoặc đưa vào kho lưu trữ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: M4_Sherman http://afvdb.50megs.com/usa/m4sherman.html http://militaryhistory.about.com/od/vehiclesarmor/... http://imperialclub.com/Yr/1945/46Tanks/Cover.htm http://www.israeli-weapons.com/weapons/vehicles/ta... http://ww2photo.mimerswell.com/tanks/usa/med/m4/m4... http://ww2photo.mimerswell.com/tanks/usa/med/m4/m4... http://ww2photo.mimerswell.com/tanks/usa/med/m4/sh... http://www.onwar.com/tanks/usa/index.htm http://www.wwiivehicles.com/usa/tanks-medium/m4.as... http://www.inert-ord.net/usa03a/usa5/75mm/index.ht...